Bộ trưởng Bộ Xây dựng Trần Hồng Minh yêu cầu khẩn trương rà soát, thống kê và hệ thống hóa toàn bộ tiêu chuẩn kỹ thuật trong lĩnh vực đường sắt, phục vụ cho việc xây dựng và triển khai các dự án, đặc biệt là tuyến đường sắt tốc độ cao.
Tại cuộc họp sáng ngày 29 tháng 7, Bộ trưởng Trần Hồng Minh nhấn mạnh, cần phân loại rõ các nhóm đường sắt gồm: đường sắt đô thị, đường sắt thông thường (vận tốc dưới 200 km/giờ), và đường sắt tốc độ cao (vận tốc từ trên 200 km/giờ đến dưới 400 km/giờ). Trên cơ sở đó, cần rà soát và thống kê các tiêu chuẩn hiện hành bao gồm cả tiêu chuẩn quốc gia Việt Nam và tiêu chuẩn quốc tế đã được phép áp dụng.

Mỗi tiêu chuẩn cần được phân loại theo danh mục như: kết cấu hạ tầng, phương tiện vận tải, hệ thống tín hiệu – điều khiển, an toàn vận hành... Đồng thời, đánh giá khả năng áp dụng phù hợp với từng loại hình đường sắt.
Bộ trưởng giao Vụ Khoa học công nghệ môi trường và Vật liệu xây dựng chủ trì, xây dựng dự thảo báo cáo tổng hợp, gửi Bộ Khoa học và Công nghệ thẩm định, để trình Chính phủ đúng hạn.
Tại cuộc họp, Thứ trưởng Bộ Xây dựng Phạm Minh Hà cho rằng, với các dự án sử dụng công nghệ mới, đặc biệt là lĩnh vực chưa từng triển khai tại Việt Nam như đường sắt tốc độ cao, cần tiến hành thẩm định công nghệ trước cả khi thẩm định dự án. Khi công nghệ đã được xác định, mới có thể lựa chọn hệ tiêu chuẩn kỹ thuật tương ứng.
Thứ trưởng Nguyễn Danh Huy nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xác định các thông số kỹ thuật chủ yếu cho dự án đường sắt, để từ đó đơn vị tư vấn lựa chọn công nghệ phù hợp và đề xuất danh mục tiêu chuẩn. Ông cho biết, theo quy định hiện hành, các dự án có thể áp dụng đồng thời tiêu chuẩn quốc gia và tiêu chuẩn nước ngoài nếu đảm bảo tính tương thích với công nghệ.
Vụ trưởng Vụ Khoa học công nghệ môi trường và Vật liệu xây dựng Lê Trung Thành cho biết, trong lĩnh vực đường sắt, hiện đã có 130 tiêu chuẩn quốc gia và 11 quy chuẩn kỹ thuật quốc gia được công bố. Riêng với đường sắt tốc độ cao, Việt Nam đã ban hành 81 tiêu chuẩn và đang xây dựng thêm 36 dự thảo tiêu chuẩn quốc gia dựa trên tiêu chuẩn châu Âu và quốc tế. Như vậy, sẽ có tổng cộng 117 tiêu chuẩn có thể áp dụng cho dự án đường sắt tốc độ cao.
Tuy nhiên, hệ thống tiêu chuẩn Việt Nam hiện nay mới tập trung vào các nội dung chung, đặc biệt trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng. Các tiêu chuẩn kỹ thuật cao liên quan đến thiết bị, công nghệ, phương tiện vận hành vẫn chưa được hoàn thiện do chưa xác định công nghệ cụ thể cho dự án.
Hiện nay, trên thế giới có 21 quốc gia và vùng lãnh thổ đang khai thác đường sắt tốc độ cao và 7 nước đang xây dựng. Chỉ một số quốc gia có nền công nghiệp đường sắt phát triển như Nhật Bản, Pháp mới ban hành hệ tiêu chuẩn quốc gia riêng. Các quốc gia còn lại chủ yếu tiếp nhận công nghệ từ nước ngoài và xây dựng hệ thống tiêu chuẩn tương thích theo năm nhóm chính: hạ tầng, năng lượng, tín hiệu – điều khiển, phương tiện, và khai thác – bảo trì.
Việc chuẩn hóa hệ thống tiêu chuẩn được xác định là nhiệm vụ trọng tâm, nhằm tạo hành lang pháp lý đồng bộ để triển khai hiệu quả các dự án đường sắt hiện đại tại Việt Nam.