Nghị định này quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành về đối tượng và điều kiện hưởng trợ cấp hưu trí xã hội; mức trợ cấp hưu trí xã hội; trình tự thực hiện trợ cấp hưu trí xã hội; hỗ trợ chi phí mai táng; kinh phí và thực hiện chi trả trợ cấp hưu trí xã hội.
Theo nghị định có hiệu lực từ đầu tháng 7, trường hợp người từ 75 tuổi đang hưởng lương hưu hoặc trợ cấp xã hội thấp hơn 500.000 đồng mỗi tháng, Nhà nước sẽ chi trả phần chênh lệch để đảm bảo mức trợ cấp hưu trí xã hội đạt 500.000 đồng/tháng.
Trường hợp thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo thì chỉ cần đủ 70 tuổi đến dưới 75 tuổi.
So với quy định hiện hành, độ tuổi được hưởng trợ cấp hưu trí xã hội giảm từ 80 xuống 75, giúp mở rộng phạm vi thụ hưởng thêm khoảng 800.000 người.

Tùy theo điều kiện kinh tế-xã hội, khả năng cân đối ngân sách, huy động các nguồn lực xã hội, UBND cấp tỉnh trình HĐND cùng cấp quyết định hỗ trợ thêm cho người hưởng trợ cấp hưu trí xã hội.
Người đề nghị trợ cấp hưu trí xã hội có văn bản đề nghị hưởng trợ cấp hưu trí xã hội theo Mẫu số 01 ban hành kèm theo Nghị định này gửi trực tiếp hoặc qua tổ chức bưu chính hoặc trên môi trường mạng đến Chủ tịch UBND cấp xã.
Trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị hưởng trợ cấp hưu trí xã hội, Chủ tịch UBND cấp xã tổ chức xem xét, thực hiện xác thực và chuẩn hóa thông tin liên quan của người đề nghị trợ cấp hưu trí xã hội với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, quyết định và thực hiện chi trả trợ cấp hưu trí xã hội cho người đề nghị theo quy định pháp luật.
Trường hợp người đề nghị không đủ điều kiện hưởng trợ cấp hưu trí xã hội thì Chủ tịch UBND cấp xã trả lời bằng văn bản, nêu rõ lý do.
Theo tính toán, với chính sách mới, dự kiến cả nước có khoảng 1,6 triệu người cao tuổi được hưởng trợ cấp hưu trí xã hội, gồm 1,5 triệu người từ đủ 75 đến dưới 80 tuổi không có lương hưu và 100.000 người từ 70 đến dưới 75 tuổi thuộc diện hộ nghèo, cận nghèo.