Điện ảnh chiến tranh Việt Nam đã từng có những dấu mốc sáng chói với Vĩ Tuyến 17 Ngày Và Đêm, Cánh Đồng Hoang, Đất Nước Đứng Lên, Mùi Cỏ Cháy hay gần hơn là Địa Đạo ra mắt vào dịp 30/4 năm nay. Nhưng để tái hiện một chiến dịch khốc liệt, đầy máu và nước mắt như 81 ngày đêm Quảng Trị thì Mưa Đỏ là nỗ lực lớn lao, vừa mang giá trị nghệ thuật, vừa như một bản trường ca ký ức gửi đến thế hệ hôm nay. Bộ phim không chỉ khắc họa chiến tranh bằng bom đạn mà còn bằng tình người, nỗi đau và khát vọng.
Sự trở lại cần thiết của điện ảnh chiến tranh Việt
Trong nhiều năm, điện ảnh Việt Nam dường như lặng đi với đề tài chiến tranh. Khán giả quen với dòng phim thị trường, tình cảm, kinh dị và ít khi thấy những tác phẩm khơi lại ký ức lịch sử. Trong những năm gần đây sự trở lại của dòng phim này được dông đảo khán giả ủng hộ. Năm 2024 với Đào, Phở và Piano. Rồi đến 2025 có Địa Đạo ra mắt dịp 30/4 tái hiện những người lính âm thầm chiến đấu trong lòng đất Củ Chi. Mưa Đỏ, công chiếu dịp Quốc khánh 2/9, tiếp nối mạch nguồn đó nhưng chọn một chiến trường khốc liệt hơn: Thành cổ Quảng Trị – nơi hàng nghìn thanh niên xếp tuổi mười tám, đôi mươi đã ngã xuống trong mưa bom bão đạn.
Nếu Địa Đạo chú trọng bối cảnh đặc thù và chiến thuật đánh giặc từ dưới lòng đất, thì Mưa Đỏ mở rộng quy mô, lấy bối cảnh là cả một thành cổ. Sự trở lại liên tiếp của hai bộ phim cho thấy điện ảnh chiến tranh không hề lỗi thời. Nó vẫn có khả năng kéo khán giả đến rạp, miễn là được kể bằng hơi thở của thời đại: chân thực, giàu cảm xúc và không sa vào giáo điều.

Mưa Đỏ gợi nhớ lại 81 ngày đêm ở Thành cổ Quảng Trị – nơi mưa bom bão đạn trút xuống không ngừng, biến một thị xã nhỏ bé thành “cối xay thịt”. Trận chiến không chỉ tiêu hao sinh mạng của hàng vạn chiến sĩ, mà còn trở thành bước ngoặt để thay đổi bàn cờ chính trị quốc tế: buộc Mỹ phải ngồi lại tại Hội nghị Paris, mở đường cho đại thắng mùa Xuân 1975.
Phim không phải là một thước phim tài liệu khô khan, cũng không chỉ là “kể công” quá khứ, mà biết hòa trộn giữa hiện thực chiến trường và nhịp đập nhân văn. Chính sự cân bằng ấy khiến phim trở thành một sự trở lại đầy tự tin của điện ảnh chiến tranh Việt Nam.
Điều đặc biệt, Mưa Đỏ không chỉ kể lại “sự kiện” mà còn kể “con người”. Những người lính trẻ, những bà mẹ, những cô gái nơi hậu phương, thậm chí cả binh sĩ VNCH – tất cả hiện lên với sự phức tạp và đau đớn của chiến tranh. Không một bên nào được tuyệt đối hóa, không một sự hy sinh nào bị xem nhẹ. Chính điểm này đưa Mưa Đỏ tiến gần hơn với chuẩn mực điện ảnh hiện đại: chiến tranh và lịch sử không chỉ được kể lại bởi bên thắng cuộc, đó chính là bi kịch nhân loại.
81 ngày đêm – khúc trang ca đầy hy vọng
Trái với dự đoán rằng phim sẽ mở màn bằng những cảnh chiến đấu. Mưa Đỏ bắt đầu bằng một khúc nhạc giao hưởng êm đềm. Lựa chọn nghệ thuật này giống như một cú “lừa” đầy cảm xúc: nó đặt khán giả vào một không gian lắng đọng, để rồi càng thấm thía hơn khi cơn bão bom đạn ập tới.

Tâm điểm phim xoay quanh tiểu đội 1 – những thanh niên từ khắp miền đất nước. Mỗi người mang trong mình một mảnh đời: chàng sinh viên Nhạc viện mơ du học Tchaikovsky, chàng họa sĩ luôn mang theo giấy vẽ, cậu học trò nhỏ tuổi anh dũng viết thư bằng máu xin ra trận, chàng thợ điện người Quảng Nam chân chất, ngoan cường và người anh đội trưởng “100% nông dân” vừa chân chất vừa trách nhiệm. Mỗi người đều có một câu chuyện và xuất thân khác nhau nhưng đều mang trong mình lý tưởng và ước mơ hòa bình.
Trong khói lửa, họ vẫn hồn nhiên cười nói, thậm chí lấy cái chết làm trò đùa. Những cảnh đêm tối với ánh sáng pháo rực trời vừa đẹp, vừa đau lòng. Người lính nhấm nháp những vụn lương khô cầm hơi, cơ thể lở loét vì chấy rận, nhưng vẫn cười, vẫn ca hát. Chính những khoảng sáng ấy làm cho bóng tối càng nặng nề, và sự hy sinh càng đau thấu ruột gan.


Điểm nổi bật của Mưa Đỏ là tái hiện 81 ngày đêm chiến đấu tại Thành cổ Quảng Trị bằng thứ ngôn ngữ điện ảnh vừa ám ảnh vừa đầy chất thơ. Từng cảnh quay pháo kích, hầm hào sập xuống, những xác lính nằm rải rác không nguyên vẹn. Những khung cảnh ấy khắc họa một mùa hè đỏ lửa nơi thành cổ, phơi bày sự tàn khốc của cuộc chiến nhưng cũng khắc họa sự bền bỉ của con người.
Đạo diễn khéo léo tạo ra sự đối lập: tiếng nổ long trời lở đất đối nghịch với ánh mắt kiên cường của những người lính trẻ. Giữa khói lửa, họ hát, thấy họ viết thư về quê, thấy họ ôm chặt lấy nhau để cùng vượt qua nỗi sợ. Tất cả làm nổi bật thông điệp: ngay trong những khoảnh khắc tận cùng của cái chết, niềm tin và hy vọng vẫn không bị dập tắt.
Hy sinh và nỗi đau – vết cắt không lành trong ký ức
Mưa Đỏ không né tránh cái chết. Nó không tô vẽ chiến tranh như bản anh hùng ca rực rỡ mà đi thẳng vào sự tàn khốc. Người lính hy sinh từng người một, để lại những khoảng trống khôn nguôi.


Một trong những phân cảnh đắt giá nhất là khi chiến sĩ Hải (do Nguyễn Hùng đảm nhận) bị địch bắt, treo lên cao, tra tấn rồi thiêu sống. Trước ngọn lửa, anh hét lớn: “Đừng nản lòng, đừng bỏ cuộc, chúng ta sẽ giành chiến thắng”. Hình ảnh ấy vừa là nỗi đau, vừa là ngọn lửa bất diệt, khiến cả khán phòng lặng người.
Cũng ám ảnh không kém là cảnh thương binh bị cưa chân sống vì thiếu thuốc. Tiếng rên xé lòng, giọt nước mắt của bác sĩ Lê (do Hứa Vĩ Văn Thủ vai): “Mỗi ngày mất đi hàng trăm người”. Đó là lát cắt hiếm hoi điện ảnh Việt dám đi tới tận cùng của sự thật – không né tránh, không lãng mạn hóa.
Những sự ra đi lần lượt của từng nhân vật khiến khán giả nhiều lúc phải cúi mặt. Nhưng đó không chỉ là nỗi buồn, mà là lời nhắc nhở: máu xương đã đổ xuống để thế hệ hôm nay được sống.
So với những bộ phim trước, Mưa Đỏ mạnh dạn hơn khi khắc họa cả binh lính VNCH – những con người cũng phải đối diện mất mát, cũng có mẹ già, người yêu. Chiến tranh, rốt cuộc, là một cỗ máy nghiền nát tất cả, không phân biệt bên nào.

Bộ phim có giới hạn độ tuổi khá nhỏ là T13 để có thể tiếp cận được nhiều đối tượng khán giả. Phim không chỉ làm để cho những người lớn, những người di qua chiến tranh biết về nhưng hy sinh của chính họ. Bộ phim muốn hướng tới thế hệ trẻ, những người đang sống trong hòa bình có thể nhìn thấy đươc một pàn nào đó những mất mát và hi sinh của cha ông trong chiến tranh. Từ đó, khiến những người ở thời bình càng thêm trân trọng những gì mình đang có được. Tuy nhiên, như đã nói ở trên bộ phim lột tả một cách chân thực những gì diễn ra tại chiến trường thành cổ, máu me, súng đạn và đánh đấm có thể không phù hợp lắm với giới khán giả nhỏ như hạn độ tuổi hiện tại.
Tình yêu, tình mẹ và khát vọng sống trong lửa đạn
Nếu chỉ có bom đạn, Mưa Đỏ sẽ nặng nề đến ngạt thở. Nhưng phim đã khéo léo lồng vào những mạch cảm xúc riêng tư như tình yêu, tình mẫu tử. Đây giống như một khoảng thở nhân văn. Mưa đỏ với đạo diễn nữ là đạo diễn Đặng Thái Huyền - là một người lính đã tùng làm vợ và làm mẹ nên có những cái nhìn tinh tế và sâu sắc về tình mẫu tử.
Song song với máu và nước mắt, phim cũng khắc họa tình mẫu tử, tình yêu, tình vợ chồng – những sợi dây nhân văn khiến nỗi đau thêm sâu. Nhân vật Cường (Đô Nhật Hoàng thủ vai) giữ chiếc khăn của người con gái lái đò như báu vật. Tú (Đình Khang đảm nhận) – cậu lính trẻ – khi ngã xuống chỉ kịp gọi “mẹ ơi”. Tiểu đội trưởng Tạ (Nguyễn Phương Nam), dù quen với cái chết cận kề, vẫn đau đáu viết thư về cho vợ, cố gắng viết đúng chính tả. Những chi tiết nhỏ ấy khiến cuộc chiến trong Mưa Đỏ không chỉ là một trận chiến đã từng khốc liệt, mà nó còn mang nhưng nỗi đau cụ thể từ những gương mặt, hơi thở và trái tim con người.
Đây chính là điểm nhấn nhân bản của Mưa Đỏ. Phim không khắc họa những “cỗ máy chiến đấu”, mà khắc họa những con người với tình cảm đời thường. Sự ra đi họ đau đớnkhông chỉ vì họ là những người đã ngã xuống vì đất nước, mà vì họ còn là những người vô cùng thân thuộc - là những người trẻ, là những người con, là những chồng, người cha, họ còn có những ước mơ, nhưng điều còn dang dở.


Chiến tranh không dừng lại ở tiếng súng. Nó để lại vết thương dài lâu trong ký ức của cả dân tộc. Mưa Đỏ làm khán giả lặng đi ở những phân cảnh không còn bom đạn mà vẫn nghẹn ngào. Hình ảnh những bà mẹ chờ con không về, những ngôi mộ vô danh chen chúc trong nghĩa trang liệt sĩ, hay những giọt nước mắt của người lính sống sót… Tất cả như đã biến bộ phim thành một bản tưởng niệm về những gì đã qua.
Ở đây, điện ảnh trở thành chứng nhân lịch sử. Mưa Đỏ nhắc chúng ta rằng sự hy sinh ấy không chỉ nằm trong sách giáo khoa. Nó là máu, là xương, là tuổi trẻ của hàng vạn người đã ngã xuống. Và nỗi đau ấy, dù đã gần một thế kỷ, vẫn chưa bao giờ lành.
Khán giả trẻ hôm nay có thể chưa từng trải qua chiến tranh, nhưng khi xem phim, họ hiểu rằng hòa bình là cái giá của máu. Và sự biết ơn không chỉ dừng ở cảm xúc, mà còn là trách nhiệm: sống sao cho xứng đáng với thế hệ đã hy sinh.
Điện ảnh, nghệ thuật và những giới hạn cần vượt qua
Xét về kỹ thuật, Mưa Đỏ là bước tiến đáng ghi nhận của điện ảnh Việt. Các đại cảnh chiến đấu được dựng công phu, góc máy có chiều sâu, ánh sáng và âm nhạc giàu tính điện ảnh. Có những khung hình – như cảnh mưa bom đổ xuống Thành cổ, hay lá cờ tung bay giữa tro tàn – xứng đáng trở thành biểu tượng thị giác.
Về hình ảnh, phim sử dụng tông màu u tối, nhiều cảnh quay trong mưa và khói lửa, tạo cảm giác ngột ngạt như chính cuộc chiến. Âm thanh pháo nổ, tiếng đất đá rơi, tiếng la hét… được xử lý chân thực, khiến khán giả như đang ở giữa trận địa.
Phim sử dụng ngôn ngữ điện ảnh đơn giản, cách kể chuyện tuyến tính làm cho người xem dễ hiểu để có thể nắm bắt được một cuộc chiến phức tạp. Dàn diễn viên trẻ tuy chưa hoàn hảo, nhưng tròn vai.

Tuy nhiên phim đang bị ôm đồm quá nhiều tuyến nhân vật khiến phim bị loãng Ngay từ đầu phim set up bối cảnh khá sáng tạo khi chia mạch phim ở 3 phía gồm quân ta trên chiến trường, đoàn tham gia đàm phán hiệp định Paris và lính VNCH. Nhưng khi vào phim thì tuyệt nhiên bàn đám phán gần như bị lu mở và chỉ mang tính chất là bối cảnh. Tuy là tình tiết khá quan trọng trong cuộc chiến nhưng thay vì được diễn ra cùng thời điểm thì phim lược rất nhiều thứ có thể diễn ra song song làm cuộc chiến sống động hơn.
Mưa Đỏ bù lại bằng những ẩn dụ tinh tế: chiếc khăn rằn rách đôi thành hình chữ S, cánh chim giữa mưa bom tượng trưng cho khát vọng hòa bình. Đó là tư duy hình ảnh hiện đại, vượt khỏi lối kể truyền thống.
So sánh với Mùi Cỏ Cháy – bộ phim cũng viết về tuổi trẻ ra trận nơi chiến trường Quảng Trị – có thể thấy Mưa Đỏ mạnh về quy mô và hình ảnh, nhưng cần trau chuốt thêm ở chiều sâu nhân vật. Song, nếu xem Mưa Đỏ như một trong những bước khởi đầu, thì đây là cú hích quan trọng để điện ảnh chiến tranh Việt Nam đi xa hơn, tiếp cận khán giả trẻ thời nay.
Sau hơn hai giờ, khán giả ra khỏi rạp với đôi mắt ướt. Có thể cười, có thể thổn thức, nhưng cuối cùng là cảm giác biết ơn. Biết ơn những người đã ngã xuống, biết ơn điện ảnh đã làm sống lại ký ức, và biết ơn hòa bình hôm nay.
Mưa Đỏ không hoàn hảo, nhưng là một tác phẩm cần thiết. Bởi hơn cả nghệ thuật, bộ phim gợi về ký ức của một thế hệ đã từng sống và chiến đấu vì một lý tưởng và một niềm tin giành được độc lập, hòa bình. Và ký ức ấy, một khi đã được khắc sâu, sẽ nhắc nhở mỗi thế hệ: tự do và hòa bình hôm nay được đánh đổi bằng máu xương.
Cùng với các phim cùng đề tài trước đó, Mưa Đỏ không chỉ góp thêm một góc nhìn của hậu thế, nói lên lời tri ân, lòng biết ơn vô bờ bến với sự hy sinh của cha ông để đem lại hòa bình cho đất nước, mà còn đặt thêm niềm hy vọng về một dòng phim điện ảnh lịch sử chiến tranh mới có thể chạm tới trái tim, tới cảm xúc của khán giả trẻ, những thế hệ sinh ra sau chiến tranh rất nhiều năm.