Riêng tháng 6/2025, kim ngạch ước đạt 5,93 tỷ USD, tăng 5,3% so với cùng kỳ. Đây là những con số ấn tượng, phản ánh sự phục hồi và phát triển mạnh mẽ của ngành.
Trong 6 tháng đầu năm 2025, ngành nông lâm thủy sản Việt Nam chứng kiến nhiều tín hiệu tích cực ở cả ba lĩnh vực:
Trồng trọt: Diện tích gieo cấy lúa đạt khoảng 5,2 triệu hecta, tăng nhẹ 0,03%. Sản lượng lúa thu hoạch ước đạt trên 22,7 triệu tấn, tương đương 101,7% so với cùng kỳ 2024. Các cây ăn quả chủ lực như thanh long, xoài và cây công nghiệp lâu năm như cà phê, cao su đều tăng về diện tích và sản lượng, cho thấy xu hướng đa dạng hóa sản xuất hiệu quả.
Chăn nuôi: Ngành này phục hồi mạnh mẽ nhờ dịch bệnh được kiểm soát tốt. Đàn lợn tăng 3,8%, đạt khoảng 29,5 triệu con, và đàn gia cầm tăng 4%, lên hơn 600 triệu con. Giá bán thịt gia súc, gia cầm duy trì ở mức cao, tạo điều kiện thuận lợi cho người chăn nuôi.
Lâm nghiệp: Ghi nhận bước tiến đáng kể với diện tích rừng trồng mới tập trung đạt 153,5 nghìn ha, tăng 18,9%. Sản lượng gỗ khai thác đạt 11,2 triệu m³, tăng 9%, hỗ trợ mạnh mẽ cho ngành công nghiệp chế biến.
Thủy sản: Tiếp tục là điểm sáng với tổng sản lượng ước đạt 4.550,9 nghìn tấn, tăng 3,1%. Trong đó, cá đạt 3.281,8 nghìn tấn (tăng 2,9%) và tôm đạt 605,5 nghìn tấn (tăng 5,6%).
Tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản 6 tháng đạt 33,84 tỷ USD, tăng 15,5%. Các nhóm hàng chủ lực đều đóng góp vào sự tăng trưởng này gồm nông sản đạt 18,46 tỷ USD, tăng 17,8%.
Thủy sản đạt 5,16 tỷ USD, tăng 16,9%.
Lâm sản đạt 8,82 tỷ USD, tăng 9,3%.
Sản phẩm chăn nuôi đạt 264,4 triệu USD, tăng 10,1%.
Về thị trường xuất khẩu, châu Á dẫn đầu với 42% thị phần, tiếp theo là châu Mỹ (23,5%) và châu Âu (15,6%). Đặc biệt, xuất khẩu sang châu Âu tăng 46,3%, châu Phi tăng 99,5% và châu Mỹ tăng 18,7% so với cùng kỳ năm trước.
Ba thị trường lớn nhất của Việt Nam là Hoa Kỳ (21,1% thị phần), Trung Quốc (17,6%) và Nhật Bản (7,2%). Giá trị xuất khẩu sang Hoa Kỳ tăng 16%, Nhật Bản tăng 25,5%, trong khi Trung Quốc giảm nhẹ 0,7% do cạnh tranh gia tăng.
Một số ngành hàng nổi bật như về cà phê: Khối lượng xuất khẩu 6 tháng đạt 953,9 nghìn tấn (tăng 5,3%), giá trị đạt 5,45 tỷ USD (tăng 67,5%). Giá bình quân đạt 5.708,3 USD/tấn, tăng 59,1%, nhờ nhu cầu cao từ Đức (tăng 2,2 lần), Italia (tăng 45,1%) và Tây Ban Nha (tăng 55,8%).
Cao su: Khối lượng giảm 6,5% xuống 680,1 nghìn tấn, nhưng giá trị tăng 14,4% lên 1,27 tỷ USD, với giá bình quân 1.864,7 USD/tấn (tăng 22,4%). Trung Quốc chiếm 70% thị phần (tăng 34%).
Gạo: Khối lượng xuất khẩu tăng 7,6% lên 4,9 triệu tấn, nhưng giá trị giảm 12,2% xuống 2,54 tỷ USD, với giá bình quân 517,5 USD/tấn (giảm 18,4%). Philippin chiếm 43,4%.
Rau quả: Giá trị xuất khẩu đạt 3,05 tỷ USD, giảm 8,4%, với Trung Quốc chiếm 48,2% nhưng giảm 35,1% do kiểm soát chặt chẽ chính ngạch.
Hạt điều: Khối lượng xuất khẩu giảm 2,7% xuống 346,8 nghìn tấn, nhưng giá trị tăng 20,4% lên 2,36 tỷ USD, với giá 6.805,4 USD/tấn (tăng 23,8%).
Hạt tiêu: Khối lượng xuất khẩu giảm 12,4% xuống 124,9 nghìn tấn, nhưng giá trị tăng 35,7% lên 859,6 triệu USD, với giá 6.881 USD/tấn (tăng 54,8%).
Sắn: Khối lượng xuất khẩu tăng 68,6% lên 2,3 triệu tấn, giá trị tăng 12,8% lên 711,5 triệu USD.
Thủy sản: Giá trị xuất khẩu đạt 5,16 tỷ USD, tăng 16,9%.
Kim ngạch nhập khẩu nông lâm thủy sản 6 tháng cũng đạt 24,01 tỷ USD, tăng 15,1%. Trong đó, nông sản chiếm 14,86 tỷ USD (tăng 16,4%), thủy sản 1,61 tỷ USD (tăng 33,4%) và chăn nuôi 2,11 tỷ USD (tăng 21,5%). Châu Á (31,4%) và châu Mỹ (24,7%) là hai nguồn nhập khẩu lớn, với Trung Quốc và Hoa Kỳ cùng chiếm 8,9%, tăng lần lượt 9,1% và 19%.
Sự tăng trưởng ấn tượng trong xuất khẩu, đặc biệt sang châu Âu và châu Phi, cho thấy tiềm năng mở rộng thị trường của Việt Nam.
Tuy nhiên, sự phụ thuộc vào Trung Quốc và việc giảm giá trị ở một số mặt hàng như rau quả, chè đòi hỏi các chiến lược đa dạng hóa thị trường và sản phẩm. Việc tiếp tục kiểm soát dịch bệnh, nâng cao chất lượng sản phẩm và đầu tư vào công nghệ sẽ là chìa khóa để duy trì đà phát triển bền vững trong nửa cuối năm 2025.