Theo dữ liệu của chính phủ được công bố vào ngày 30/10, số người được chẩn đoán mắc bệnh trầm cảm đã tăng từ 752.976 vào năm 2018 lên 1.106.744 vào năm 2024, tăng 47%.
Trong khi đó, dữ liệu từ Cơ quan Bảo hiểm Y tế Quốc gia cho thấy chi phí điều trị bệnh tâm thần đã tăng gần gấp đôi, vượt quá 761,5 tỷ won (hơn 14.000 tỷ đồng).
Các trường hợp rối loạn lưỡng cực cũng tăng nhanh chóng, với số bệnh nhân tăng 45,7% lên gần 140.000 trong cùng kỳ. Chi phí điều trị rối loạn lưỡng cực tăng vọt 57% lên khoảng 182,3 tỷ won (gần 3.400 tỷ đồng).
Tổng chi phí chăm sóc sức khỏe hàng năm cho hai tình trạng tâm thần này gần đạt tới 1 nghìn tỷ won ― một xu hướng đáng lo ngại cho thấy vấn đề sức khỏe tâm thần ngày càng trầm trọng ở Hàn Quốc.
Trầm cảm là một rối loạn tâm trạng đặc trưng bởi cảm giác buồn bã, lo lắng và tuyệt vọng dai dẳng. Rối loạn lưỡng cực là một tình trạng đặc trưng bởi sự thay đổi cực độ về mức độ tâm trạng.
Người trẻ Hàn Quốc bị ảnh hưởng đặc biệt nghiêm trọng. Số bệnh nhân trầm cảm dưới 10 tuổi đã tăng hơn gấp đôi từ 967 ca năm 2018 lên 2.162 ca năm ngoái - mức tăng trưởng cao nhất trong tất cả các nhóm tuổi. Những người dưới 40 tuổi hiện chiếm 41,7% tổng số ca trầm cảm.
Rối loạn lưỡng cực cũng tăng mạnh ở thanh thiếu niên, trong đó trẻ em dưới 10 tuổi tăng gấp 4,3 lần trong giai đoạn bảy năm. Theo giới tính, 67,2% bệnh nhân trầm cảm và 62,4% bệnh nhân rối loạn lưỡng cực năm ngoái là phụ nữ.
Nghị sĩ Kim Mi-ae đánh giá: "Trầm cảm và rối loạn lưỡng cực không chỉ đơn thuần là những căn bệnh riêng lẻ; đúng hơn, những tình trạng này là hiện tượng bệnh lý bắt nguồn từ cấu trúc xã hội Hàn Quốc".
Bà cho rằng, chính phủ cần phải tăng cường can thiệp sớm và tăng cường tài trợ, đặc biệt là khi các vấn đề sức khỏe tâm thần đang gia tăng, đặc biệt là ở giới trẻ và phụ nữ.
Tỷ lệ tự tử của Hàn Quốc, một yếu tố nguy cơ liên quan chặt chẽ đến trầm cảm và rối loạn lưỡng cực, là cao nhất trong số các quốc gia thành viên OECD.
Tháng trước, chính phủ nước này đã công bố kế hoạch giảm tỷ lệ tự tử từ 28,3 trên 100.000 người vào năm 2024 xuống còn 17 vào năm 2034, thấp hơn tỷ lệ 17,1 của Lithuania, quốc gia cao thứ hai trong khối.

