Một lời mắng có thể là nỗi đau cả đời với trẻ nhỏ
Trong chúng ta ai cũng từng nhớ có những lần bị la bởi người lớn, bố mẹ vậy thì lúc đó chính bản thân chúng ta có cảm thấy bị tổn thương và buồn vì chính lời nói đó không?

La mắng có thể là nỗi đau, nỗi ám ảnh lâu dài đối với trẻ - Ảnh minh hoạ
Ngày nay khi mỗi bậc phụ huynh muốn giáo dục con cái cũng vậy, không phải là dùng những lời nói nặng nề, thậm chí có phần xúc phạm đến con với mục đích muốn răn đe con. Nhưng chính từ những lời nói đó sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến tâm lý của con trẻ, làm cho trẻ cảm thấy sợ hãi, tự ti khi ra ngoài và nhiều trẻ sẽ bị ám ảnh bởi những lời chửi mắng đó.
Việc giáo dục con cái sẽ phần nào định hình được tính cách và cách nhìn của một đứa trẻ đối với thế giới bên ngoài. Nếu phụ huynh thường xuyên dùng những lời nói nặng nề để “giáo dục” trẻ thì bản thân trẻ sẽ hình thành tính nhút nhát, luôn cảm thấy lo sợ khi làm bất cứ việc gì và nặng hơn thế đó là mắc chứng lo âu và trầm cảm.
Về sau này khi trẻ lớn và trưởng thành thì những điều đó đã in sâu vào tâm lý của trẻ và luôn khiến trẻ nhìn mọi người và thế giới xung quanh thì đâu cũng là mối đe doạ và khi đó trẻ sẽ trở nên mẫn cảm hơn với tất cả mọi thứ, dần thu mình lại không dám bước ra và tách mình khỏi mọi thứ.
Tất nhiên, điều đó không đồng nghĩa với việc khi trẻ phạm lỗi, trẻ làm sai thì mọi thứ đều bỏ qua. Nhưng thay vì la mắng trẻ thì các bậc phụ huynh nên dùng những lời nói tôn trọng trẻ, dạy cho trẻ và giải thích cho trẻ đâu là đúng đâu là sai. Khi trẻ mắc lỗi thì sẽ nói cho trẻ hiểu và dùng những sự quan tâm, nhẹ nhàng đối với trẻ. Khi trẻ làm đúng và cần được khen thưởng thì bố mẹ cũng đừng quên khích lệ, động viên và khen trẻ để trẻ cố gắng hơn nữa.
Trong quá trình phát triển lành mạnh của mỗi đứa trẻ, những trao đổi ấm áp bằng lời nói và phi ngôn ngữ với cha mẹ như lời khen, lời động viên, sự thấu hiểu giúp trẻ học cách thiết lập những mối quan hệ an toàn và tích cực. Những yếu tố này cũng giúp trẻ xây dựng lòng tự trọng và sự tự tin trong giao tiếp xã hội.
Tuổi mắc đột quỵ ở Việt Nam thấp hơn so với các nước phát triển
Tại các nước phát triển thì độ tuổi mắc đột quỵ trung bình sẽ từ 70-75 tuổi, tuy nhiên tại Việt Nam trong những năm gần đây thì độ tuổi mắc phải bệnh này thấp hơn khoảng 10 tuổi so với các quốc gia phát triển.

Tuổi mắc đột quỵ ở Việt Nam thấp hơn so với các nước phát triển - Ảnh minh hoạ
Phó chủ tịch Hội Đột quỵ Việt Nam, kiêm trưởng khoa bệnh lý mạch máu não Bệnh viện Nhân dân 115 - PGS.TS.BS Nguyễn Huy Thắng cho biết theo những số liệu thống kê số bệnh nhân nhập viện tại Bệnh viện Nhân dân 115 và dữ liệu từ những bệnh nhân đột quỵ qua đăng ký ResQ (nghiên cứu sổ bộ đầu tiên trên toàn cầu với mục đích cải thiện chất lượng đơn vị đột quỵ - PV) tại Việt Nam cho thấy độ tuổi trung bình mắc đột quỵ là vào khoảng 62 tuổi, là một vấn đề hiện đáng lo ngại.
Độ tuổi mắc đột quỵ còn phụ thuốc vào nhiều yếu tố, nguyên nhân và tuỳ vào những điều khác như khu vực địa lý, giới tính, tính chất công việc, chất lượng cuộc sống…và các yếu tố nguy cơ khác.
Những nguyên nhân dẫn đến đột quỵ mà mọi người thường chủ quan và bỏ qua
Hiện nay, không chỉ riêng những người lớn tuổi bị đột quỵ mà tỉ lệ người trẻ bị đột quỵ mỗi ngày cũng đang là một vấn đề hết sức được quan tâm và điều dẫn đến căn bệnh đột quỵ là do nhiều nguyên nhân khác nhau như:
Hút thuốc và sử dụng chất kích thích: tỉ lệ hút thuốc lá, uống rượu bia và sử dụng các chất kích thích khác đang tăng lên ở người trẻ tại các nước đang phát triển. Những thói quen này làm tổn thương mạch máu và tăng nguy cơ đột quỵ, đặc biệt khi kết hợp với các yếu tố khác.
Lối sống đô thị hóa: quá trình đô thị hóa nhanh chóng ở các nước đang phát triển đã thay đổi thói quen sống của người trẻ. Họ ít hoạt động thể chất hơn, tiêu thụ nhiều thực phẩm chế biến sẵn chứa nhiều muối và đường, đồng thời chịu áp lực từ căng thẳng tâm lý do công việc và cuộc sống thành thị. Tất cả đều là yếu tố nguy cơ lớn gây đột quỵ.
Tăng huyết áp và các bệnh lý nền: người trẻ ngày càng phải đối mặt với các bệnh như tăng huyết áp, tiểu đường, và rối loạn lipid máu ở độ tuổi sớm hơn. Nguyên nhân chủ yếu là do lối sống ít vận động, chế độ ăn không lành mạnh (nhiều đồ ăn nhanh, ít rau củ), và béo phì vốn đang trở nên phổ biến trong bối cảnh hiện đại hóa.
Ô nhiễm không khí: ở nhiều thành phố lớn tại các nước đang phát triển, ô nhiễm không khí đạt mức báo động. thường xuyên tiếp xúc với môi trường ô nhiễm. Các nghiên cứu gần đây, gợi ý mối liên quan giữa ô nhiễm môi trường và việc tăng nguy cơ đột quỵ.
Bên cạnh những nguyên nhân trên thì yếu tố chủ quan, những người có tâm lý chủ quan, không chú ý đến sức khoẻ, điều này thường nằm ở những người trẻ tuổi, không chú ý chăm sóc sức khoẻ và rèn luyện thì cũng có nguy cơ bị đột quỵ.
Để tránh và giảm nguy cơ mắc đột quỵ thì mỗi người cần điều chỉnh thói quen sinh hoạt hằng ngày, chú ý chăm sóc sức khoẻ, chế độ dinh dưỡng phù hợp. Đặc biệt, cần có thời gian để đi kiểm tra sức khoẻ định kỳ và nếu cảm thấy cơ thể không khoẻ thì cần đến thăm khám bác sĩ ngay và nghỉ ngơi hợp lý.