Con số này tăng gần 9,7% so với đầu năm, phản ánh xu hướng người dân tiếp tục lựa chọn kênh tiết kiệm ngân hàng trong bối cảnh thị trường đầu tư khác biến động và lãi suất duy trì ở mức thấp.
Đây là mức tăng mạnh nhất kể từ năm 2020, vượt xa tốc độ tăng cùng kỳ của các năm trước. Dù lãi suất huy động phổ biến dưới 6%/năm, dòng tiền từ khu vực dân cư vẫn đổ vào hệ thống ngân hàng, cho thấy niềm tin vào sự an toàn của kênh gửi tiết kiệm.
Trong khi đó, khối tổ chức kinh tế ghi nhận mức giảm nhẹ trong tháng 7. Tổng tiền gửi của các tổ chức đạt 7,976 triệu tỷ đồng, giảm khoảng 127.500 tỷ đồng so với cuối tháng 6, tương đương mức giảm 1,6%. Tuy nhiên, nếu so với đầu năm, lượng tiền gửi của khối này vẫn tăng hơn 4%, trái ngược với cùng kỳ năm 2024 khi sụt giảm hơn 1%.

Như vậy, tổng lượng tiền gửi của khu vực dân cư và doanh nghiệp tại hệ thống ngân hàng đến cuối tháng 7 đạt hơn 15,7 triệu tỷ đồng.
Ngân hàng Nhà nước cho biết thanh khoản của hệ thống vẫn duy trì ở mức dồi dào, góp phần ổn định mặt bằng lãi suất và hỗ trợ tín dụng cho nền kinh tế. Tuy nhiên, cơ quan điều hành cảnh báo áp lực đối với chính sách tiền tệ đang gia tăng do chênh lệch lãi suất giữa Việt Nam và quốc tế vẫn lớn, trong khi tỷ giá chịu ảnh hưởng từ xu hướng thắt chặt chính sách của các ngân hàng trung ương lớn.
Thống đốc Nguyễn Thị Hồng trong báo cáo gửi Quốc hội cho biết lãi suất cho vay trong nước đã giảm đáng kể trong hai năm qua, song mức lãi suất điều hành của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) vẫn ở mức cao, gây sức ép lên tỷ giá và tâm lý thị trường. Nhu cầu vốn trong nước đang tăng trở lại, trong khi huy động vốn của các tổ chức tín dụng có thể phải cạnh tranh với các kênh đầu tư khác như trái phiếu doanh nghiệp, chứng khoán và bất động sản.
Tính đến hết tháng 7, tổng huy động vốn toàn hệ thống ngân hàng tăng khoảng 7,5% so với đầu năm, trong khi tăng trưởng tín dụng đạt hơn 10%. Đến ngày 29/9, tổng dư nợ tín dụng đạt 17,71 triệu tỷ đồng, tăng 13,4% so với cuối năm 2024 – mức cao nhất kể từ năm 2020.
Về cơ cấu tín dụng, tỷ trọng cho vay khu vực nông, lâm, thủy sản chiếm 6,23%; công nghiệp – xây dựng chiếm 23,97%; còn lại 69,8% tập trung vào thương mại – dịch vụ. Khoảng 78% dư nợ phục vụ sản xuất, kinh doanh. Các lĩnh vực ưu tiên tiếp tục chiếm tỷ trọng lớn, trong đó nông nghiệp đạt 22,7%, doanh nghiệp nhỏ và vừa hơn 19%, công nghiệp hỗ trợ 23,1% và doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao tăng 25%.
Ngân hàng Nhà nước khẳng định sẽ tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, bảo đảm cân đối giữa mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định tỷ giá và hỗ trợ tăng trưởng tín dụng an toàn, bền vững.